Quyền lực về Thương mại của chính quyền trung ương Luật_Hiến_pháp_Hoa_Kỳ

Quyền quản lý thương mại

Quyền lực quan trọng nhất mà Hiến pháp trao cho Quốc hội liên bang là quyền "quản lý Thương mại với các quốc gia khác, giữa các tiểu bang và các vùng thiểu số tự trị", thường được gọi tắt là Quyền (về) Thương mại. Phần lớn mọi hoạt động của Quốc hội Liên bang đều vận dụng quyền thương mại này. Các cơ quan Hành pháp do Tổng thống đứng đầu thực hiện quản lý thương mại theo các luật do Quốc hội ban hành.

Quan niệm hiện đại về quyền thương mại của Quốc hội

Quyền (quản lý) Thương mại của chính quyền liên bang tập trung vào 04 lãnh vực quản lý sau đây:

  1. Kênh thương mại: được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm mọi "kênh" được dùng trong thương mại giữa tiểu bang này và tiểu bang khác như đường bộ, đường thủy, đường không.v.v. Mọi hoạt động thương mại trên những "kênh" này đều thuộc thẩm quyền quản lý bởi các luật do Quốc hội Liên bang ban hành, thậm chí cho dù hoạt động thương mại không vượt phạm vi của 1 tiểu bang, nhưng nếu có lưu thông trên những "kênh" của thương mại liên bang, thì Quốc hội có thể làm luật để quản lý những hoạt động thương mại này.
  2. Phương tiện thương mại: được hiểu là các yếu tố con người, máy móc thiết bị, và những phương tiện khác dùng để tiến hành hoạt động thương mại giữa tiểu bang này và tiểu bang khác. Ngay cả đối với những phương tiện hoạt động ở trong phạm vi tiểu bang nhưng vì có khả năng hoạt động xuyên bang, cho nên cũng thuộc thẩm quyền quản lý bởi các luật của Quốc hội liên bang.
  3. Vật chất, thông tin thương mại: khi những vật chất hay thông tin này gia nhập vào dòng chảy thương mại giữa các tiểu bang với nhau, thì Quốc hội có thẩm quyền làm luật để quản lý cách thức sử dụng, phân phối, bảo mật.v.v. những vật chất hay thông tin thương mại này. Cho dù quy mô hay ảnh hưởng nhỏ đến đâu nhưng nếu có trong dòng chảy thương mại liên bang thì cũng đều thuộc thẩm quyền lập pháp của Quốc hội Liên bang.
  4. Mọi hoạt động có "ảnh hưởng đáng kể" đến thương mại: đây là lãnh vực mới mẻ, rộng lớn nhất trong thẩm quyền thương mại của Quốc hội Liên bang. Trong đó, khái niệm "ảnh hưởng đáng kể" được giải thích bằng những phép thử sau:
    1. Hoạt động thuộc phạm trù thương mại: là mọi hoạt động mang sắc thái thương mại. Ngay cả đối với những hành động cụ thể không ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại, nhưng nếu vẫn xét thấy thuộc vào một phạm trù chung mang sắc thái thương mại thì cũng thuộc thẩm quyền lập pháp của Quốc hội Liên bang chi phối. Ví dụ: trong vụ kiện Wickard v. Filburn (1942), nông dân A có thửa ruộng trồng lúa mì tiêu thụ nội bộ gia đình và thặng dư tiêu thụ ở địa phương, không bán qua tiểu bang khác. Luật Quốc hội (Mỹ) quy định về quy hoạch vùng nông nghiệp quốc gia và phạt những ai trồng vượt quá quy hoạch (phá vỡ quy hoạch). Nông dân A cho rằng mình chỉ tiêu thụ nhỏ lẻ ở địa phương, không tham gia thương mại liên bang nên có quyền trồng thêm bao nhiêu tùy ý, và chế tài của luật đối với hành vi của A là "vượt quá thẩm quyền của Quốc hội". Vụ kiện đưa đến Tòa tối cao Liên bang. Xét về mức độ ảnh hưởng, Tòa thấy hoạt động nông dân A "trồng lúa mì vượt mức quy hoạch và tiêu thụ địa phương" là không gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động thương mại liên bang, nhưng hoạt động của A lại thuộc vào một loại hình hoạt động kinh tế thương mại nông nghiệp quan trọng của quốc gia. Bởi vì lúa mì được sản xuất và tiêu thụ toàn quốc, nên Tòa cho rằng hành vi "vượt quy hoạch" của A lại có "ảnh hưởng đáng kể" đến hoạt động thương mại liên bang. Xét nội dung thảo luận nghị trường về đạo luật nông nghiệp liên quan, Tòa thấy rằng đạo luật trên dùng để quy hoạch và đảm bảo một diện tích trồng lúa mì nhằm để duy trì, ổn định giá lúa mì trên toàn quốc. Tổng hợp các yếu tố trên, Tòa tuyên rằng hành vi của nông dân A là thuộc thẩm quyền (quản lý) thương mại của Quốc hội liên bang.
    2. Hoạt động, hành vi không phải là thương mại: những hoạt động phi thương mại nếu không thể hiện được các "liên hệ khá rõ ràng" đến hoạt động thương mại liên bang thì không thuộc thẩm quyền của Quốc hội Mỹ. Ví dụ về 2 vụ kiện sau đây cho thấy rõ điều đó. Trong vụ kiện thứ nhất, U.S. v. Lopez (1995), Quốc hội liên bang đã có luật quy định cấm người dân sở hữu (hoặc mang theo) vũ khí trong khu vực trường học vì cho rằng vũ khí là một mặt hàng trong thương mại liên bang nên thuộc thẩm quyền quản lý thương mại của Quốc hội. Tuy nhiên, Tòa tối cao Liên bang lại cho rằng đạo luật trên không phải quản lý "mặt hàng vũ khí" mà là quản lý hành vi "sở hữu hoặc mang theo vũ khí trong khu vực trường học". Mà hành vi "sở hữu vũ khí trong khu vực trường học" lại không thể hiện rõ ràng mối liên hệ nào đến thương mại liên bang. Do đó, Tòa Tối cao đã phán quyết nội dung cấm "sở hữu hoặc mang theo vũ khí trong khu vực trường học" là vi hiến vì vượt quá thẩm quyền thương mại của Quốc hội. Nếu không có "phép thử" như trên thì Quốc hội sẽ có quyền lực gần như không giới hạn, là trái với Hiến pháp Hoa Kỳ. Trong vụ kiện thứ hai, U.S. v. Morrison (2000) liên quan đạo luật quy định nạn nhân của bạo hành giới tính (tức là phụ nữ bị đàn ông bạo hành, hoặc ngược lại) có thể thưa lên tòa liên bang đòi đền bù tổn thất kinh tế. Quốc hội lập luận rằng nếu không bắt bồi thường thì rất nhiều phụ nữ ngại đi làm chung với nam giới (vì sợ bị ăn hiếp), sẽ ảnh hưởng đến thương mại quốc gia. Tòa cho rằng Quốc hội đã vượt quá "quyền thương mại" của Quốc hội, bởi lẽ hành vi mà luật điều chỉnh ở đây là "bạo hành giới tính" vừa chẳng phải là một hoạt động thương mại, cũng không có mối liên hệ rõ ràng gì với thương mại cả. Vì thế, Tòa cho rằng "bạo hành" không có ảnh hưởng rõ ràng lên thương mại nên phán quyết Quốc hội đã vượt thẩm quyền (quản lý) thương mại. Điều khoản luật ấy bị bãi bỏ.
      • Những hoạt động, hành vi cụ thể nếu có mối liên hệ trực tiếp đến thương mại đều có thể thuộc thẩm quyền thương mại của Quốc hội (còn gọi là nguyên tắc lưỡi câu thẩm quyền)
    3. Không để Quốc hội duy ý chí: Đối với việc xem xét "mối liên hệ rõ ràng ảnh hưởng đến thương mại" của mọi hành vi luật điều chỉnh, Tòa không được phép dựa vào ý chí của Quốc hội khi làm luật. Nói cách khác, Tòa sẽ đích thân mổ xẻ, xem xét toàn diện mọi khía cạnh cho đến khi Tòa cảm thấy hội đủ các yếu tố cần và đủ trên thực tế, cho dù Quốc hội đã trình bày các lý lẽ nghe có vẻ hợp tình hợp lý Tòa cũng ít khi quan tâm.
    4. Những lãnh vực truyền thống thuộc về địa phương (các tiểu bang): nếu Quốc hội muốn điều chỉnh các hoạt động, hành vi mà từ trước đến nay đang do luật địa phương điều chỉnh, và chính quyền địa phương (các tiểu bang) có nhiều kinh nghiệm hơn chính quyền liên bang, thì Tòa thường không công nhận những hoạt động hành vi này thuộc thẩm quyền thương mại của Quốc hội liên bang. Những lãnh vực như giáo dục, luật gia đình, và luật hình sự nói chung thường được Tòa ngăn chặn không cho thẩm quyền thương mại của Quốc hội mở rộng sâu vào những lãnh vực này.
      • Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ, đối với những lãnh vực trước đây theo truyền thống là do chính quyền địa phương quản lý, nếu Tòa thấy rằng một 'giải pháp toàn quốc' (thống nhất) là cần thiết hơn thì Tòa thường sẽ dành quyền đó cho Quốc hội. Ví dụ: lãnh vực quản lý môi trường là một lãnh vực truyền thống của địa phương, không phải của trung ương. Nhưng vì các quy định về môi trường của tiểu bang này có thể gây ra hậu quả không mong muốn cho tiểu bang khác, và các yếu tố môi trường trải dài nhiều địa phương khác nhau, nên một quy định thống nhất toàn quốc là cần thiết và mang lại lợi ích nhiều hơn là để cho địa phương tự quản lý.

Tu chính án (thứ) Mười về giới hạn quyền lực của chính quyền trung ương

Tu chính án (thứ) Mười đã quy định những quyền lực không được địa phương (các tiểu bang) đồng ý chuyển giao cho chính quyền trung ương bởi Hiến pháp, và nếu những quyền (không được chuyển giao) này không bị Hiến pháp cấm giao cho địa phương, thì chúng thuộc về địa phương, hoặc thuộc về nhân dân. Tu chính án này tuy chỉ đặt ra một giới hạn khiêm tốn nhưng đôi khi là những giới hạn rất rõ ràng cho quyền lực của chính quyền trung ương (liên bang) trong việc mở rộng thẩm quyền thông qua con đường quyền (quản lý) thương mại của chính quyền liên bang. Tu chính án này cũng thường được dùng để hạn chế sự quản lý chồng chéo giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, và hạn chế chính quyền trung ương quản lý can thiệp sâu vào hoạt động của chính quyền địa phương.

  1. Những đạo luật áp dụng chung: nếu Quốc hội liên bang ban hành một đạo luật mang tính áp dụng chung và thuộc thẩm quyền thương mại của Quốc hội, thì việc các địa phương cũng bị ảnh hưởng lây là không quan trọng và chính quyền địa phương không thể dùng Tu chính án Mười để khiếu nại chính quyền trung ương xâm phạm quyền của chính quyền địa phương.
    • Ví dụ: Quốc hội ban hành luật quy định mức lương tối thiểu cho các doanh nghiệp nói chung, và không có ngoại lệ nào dành cho doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan chính quyền địa phương. Trong vụ kiện Garcia v. San Antonia Metropolitan Transit Authority (1985), chính quyền bang Texas đã cho rằng hoạt động vận chuyển công cộng (xe buýt, xe metro) của Texas được miễn trừ trách nhiệm phải theo luật lương tối thiểu của liên bang vì đây là một lãnh vực truyền thống của chính quyền địa phương được tu chính án Mười bảo vệ. Tòa tối cao đã cho rằng việc "chính quyền địa phương trả lương như thế nào cho nhân viên của mình" có ảnh hưởng rõ ràng đến thương mại liên bang, là một thẩm quyền Hiến pháp đã giao cho chính quyền liên bang. Hiến pháp cũng có quy định Thẩm quyền Tối thượng (Supremacy Clause) đối với trường hợp thuộc thẩm quyền của chính quyền trung ương, thì luật liên bang có giá trị pháp lý cao hơn luật của tiểu bang. Nói cách khác, nếu luật liên bang điều chỉnh hành vi của cá nhân thì nhân viên và chính quyền địa phương cũng không được miễn trừ.
  2. Xâm phạm cơ chế lập pháp của chính quyền địa phương: tu chính án Mười ngăn cản Quốc hội liên bang không được can dự vào quy trình cơ chế lập pháp của chính quyền địa phương (tiểu bang). Chính quyền liên bang cũng không được phép áp đặt định hướng cho chính quyền địa phương bằng cách yêu cầu chính quyền địa phương phải làm luật và thi hành chấp pháp một đạo luật của chính quyền trung ương (liên bang). Lý do là vì các cơ chế lập pháp là một chức năng truyền thống của chính quyền địa phương và được tu chính án Mười bảo vệ không bị các quyền lực của chính quyền trung ương xâm phạm. Tương tự, chính quyền trung ương cũng không có quyền hạn buộc cơ quan hành pháp của chính quyền địa phương phải thi hành những chức năng nhiệm vụ nhất định quy định bởi luật liên bang, vì đó là nhiêm vụ của chính quyền trung ương, không phải của công chức chính quyền địa phương. Xem thêm vụ kiện Printz v. U.S. (1994) trong đó Tòa tối cao đã bãi bỏ các quy định của luật liên bang bắt buộc cảnh sát trưởng của chính quyền thành phố địa phương phải tiến hành các bước thẩm tra lý lịch của những người mua bán trao đổi vũ khí.